Showing posts with label thuat-ngu-marketing. Show all posts
Showing posts with label thuat-ngu-marketing. Show all posts

Monday, August 18, 2014

1) Tìm hiểu khái niệm căn bản
Marketing nội bộ là một khái niệm khá quen thuộc với các tổ chức, doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp dịch vụ trên thế giới. Tuy nhiên khái niệm này vẫn còn rất mới mẻ với đối với các doanh nghiệp tại Việt Nam. Để hiểu rõ marketing nội là gì, trước hết chúng ta sẽ xem xét mối số khái niệm về marketing nội bộ đã được các nhà kinh tế trên thế giới nghiên cứu và đưa ra.

"...Nhìn nhận nhân viên như khách hàng nội bộ, nhìn nhận công việc như sản phẩm nội bộ. Từ đó thỏa mãn nhu cầu, ước muốn của những khách hàng nội bộ trong quá trình thực hiện mục tiêu của tổ chức. Đó là cốt lõi của marketing nội bộ " (Berry, 1984)

"Marketing nội bộ là một quá trình thu hút, phát triển, tạo động lực và giữ gìn những nhân viên có chất lượng thông qua thỏa mãn nhu cầu của họ. Marketing nội bộ là triết lý coi nhân viên như khách hàng..." (Berry & Parasuraman, 1991)

"Marketing nội bộ nghĩa là áp dụng những triết lý của và hành động của marketing cho những nhân viên phục vụ khách hàng của doanh nghiệp. Những nhân viên tốt nhất sẽ được lựa chọn, giữ lại và họ sẽ tạo ra sản phẩm, dịch vụ, sẽ làm việc tốt nhất có thể" (The Foudations of Internal Marketing, 1993)

"Marketing nội bộ là chiến lược phát triển mối quan hệ giữa các nhân viên trong nội bộ tổ chức. Khi áp dụng chiến lược này, nhân viên có những quyền hạn nhất định và họ biết cách kết hợp để tạo ra và lưu hành những nhận thức mới về tổ chức. Những nhận thức này sẽ tạo nên thách thức đối với những hoạt động nội bộ cần phải được thay đổi để thích ứng với chất lượng của những mối liên hệ trên thị trường" (Ballantyne, 2000)

Như vậy marketing nội bộ có thể được định nghĩa như sau:
Marketing nội bộ là một quá trình liên tục, diễn ra một cách nghiêm túc trong một doanh nghiệp hay một tổ chức mà nhờ đó quá trình chức năng đi đúng hướng, tạo động lực và thúc đẩy nhân viên ở mọi cấp độ quản lý, từ đó có thể tạo nên sự hài lòng cho khách hàng. Marketing nội bộ là quá trình được bắt nguồn từ các thành viên trong tổ chức, các nhân viên trong doanh nghiệp.


2) Một số yếu tố kinh doanh theo định hướng marketing nội bộ
- Tạo ra văn hóa kinh doanh trao quyền trong doanh nghiệp: Điều này được thực hiện khi các nhân viên được nhà quản lý trao quyền hạn nhất định. Cho phép họ sáng tạo, đổi mới, cho phép nhân viên chủ động, có quyền giải trình và chịu trách nhiệm về quyết định của họ.

- Thực hiện việc tuyển dụng lôi cuốn: tức là lôi cuốn, thu hút nhân viên hiện thời tham gia vào quá trình tuyển dụng nhân viên mới.

- Đảm bảo sự công nhận và thưởng công bằng cho nhân viên: doanh nghiệp phải áp dụng một cách có hiệu quả chế độ thưởng đối với nhân viên khi muốn ghi nhận những đóng góp của họ.

- Biểu hiện sự quan tâm trong những thời điểm khó khăn: thể hiện sự quan tâm một cách công bằng và có thiện chí đối với nhân viên gặp phải những thời điểm khó khăn như ốm đau, bệnh tật hay sự ra đi của một thành viên trong gia đình. Điều này có thể được thực hiện bằng việc thiết lập các quỹ dành cho trường hợp khẩn cấp. 

- Một cơ cấu tổ chức tốt là cơ cấu tổ chức cho phép học tập, quản lý chất lượng tổng thể và có thể điều chỉnh lại. 

Sự bùng nổ của kinh tế cũng như sự ảnh hưởng mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng đã đem lại nhiều lợi ích cho các quốc gia, tuy nhiên sự hội nhập kinh tế đã và đang thách thức mỗi một ngân hàng phải có những bài toán hợp lý cho việc marketing cho sản phẩm, dịch vụ của mình


Ngày nay tình hình cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế , do vậy nó mang lại cho mỗi doanh nghiệp rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tự thích nghi và có những hướng đi đúng đắn. Ngân hàng là một nganh dịch vụ đặc biệt có rủi ro lớn: nguyên liệu chính và không thể thay thế của ngân hàng là tiền, phần lớn lại không phải thuộc sở hữu của ngân hàng. Như­ trên chúng ta đã nghiên cứu thì ngân hàng là tổ chức có hoạt động chính là “nhận tiền gửi” để “cho vay”. Số vốn mà ngân hàng được phép huy động có thể gấp tới 20 lần số vốn tự có của ngân hàng. Thực tế sẽ là: toàn bộ số tiền mà ngân hàng sử dụng để cho vay không phải là tiền của ngân hàng. Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả không điều kiện đối với khách hàng gửi khi họ muốn rút tiền, trong khi đó ngân hàng không có quyền đó với khách hàng vay của mình và ngay cả khi đến hạn thì khách hàng vay ch­a chắc đã trả đúng hạn. Điều đó có nghĩa là: trong hoạt động của ngân hàng không thể không có rủi ro, đó là điều tất yếu. Khi ngân hàng gặp rủi ro thì không chỉ ảnh hưởng đến ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế. Chính vì thế marketing được áp dụng vào hoạt động của ngân hàng để hạn chế rủi ro.

Bên cạnh đó, ngân hàng hoạt động trong hành lang hẹp về pháp lý của Nhà n­ớc nhưngvẫn chịu sự cạnh tranh gay gắt của thị trường. Ngân hàng không chỉ cạnh tranh với ngân hàng mà còn cạnh tranh với số l­ợng ngày càng đông các tổ chức tài chính khác đang xâm nhập vào hoạt động ngân hàng. Do đó muốn tồn tại ngân hàng phải nâng cao được sức cạnh tranh và hình ảnh của mình trên thị trường. Mặt khác, sản phẩm của ngân hàng mang tính đơn giản đồng điệu,dễ bị bắt ch­ớc một cách nhanh chóng. Việc đ­a ra sản phẩm mới đối với ngân hàng lại không phải là dễ và điều đó còn phụ thuộc vào điều kiện của nền kinh tế .

Và lý do hơn hết để marketing ứng dụng vào ngân hàng là lợi nhuận. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh chứ không phải là một tổ chức xã hội do đó lợi nhuận là mục tiêu sống còn của ngân hàng. Marketing được ứng dụng vào ngân hàng nhằm thu hút và thoả mãn nhu cầu khách hàng, và hướng tới mục tiêu cuối cùng đó là lợi nhuận.

Marketing ngân hàng có thể được hiểu đơn giản là marketing được ứng dụng vào hoạt động của ngân hàng nhằm thoả mãn khách hàng và thu được lợi nhuận tối ­ưu.

Tuy nhiên có một số ý kiến khác nhau về marketing ngân hàng như sau:
Marketing ngân hàng là hoạt động tiếp cận thị trường của ngân hàng th­ương mại nhằm phát hiện nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ từ đó ngân hàng thoả mãn tối đa nhu cầu đó nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh.

“Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý của một ngân hàng để đạt được mục tiêu đề ra của ngân hàng là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về vốn, cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa chọn bằng các chính sách, biện pháp hướng tới các mục tiêu cuối cùng là đối đa hoá lợi nhuận”

Và thực tế đã chứng minh các ngân hàng kinh doanh trên cơ sở các hoạt động đã được chiến l­ược hóa luôn thành công hơn các ngân hàng kinh doanh theo kiểu tuỳ tiện đối phó với thị trường. Sự thành công của các ngân hàng không xây dựng các chiến lược marketing, nếu có, chỉ là sự may mắn mà thôi và mang tính ngắn hạn.
1) Khái niệm marketing dịch vụ
Marketing dịch vụ là sự thích nghi lý thuyết hệ thống vào thị trường dịch vụ, bao gồm quá trình thu nhận, tìm hiểu, đánh giá và thỏa mãn nhu cầu của thị trường phát triển bằng hệ thống các chính sác, các biện pháp tác động vào toàn bộ quá trình sản xuất, cung ứng và tiêu dùng dịch vụ thông qua phân bố các nguồn lực của tổ chức. Marketing được duy trì trong sự năng động qua lại giữa các sản phẩm dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng và những hoạt động của đối thủ cạnh tranh trên nền tảng cân bằng lợi ích giữa doanh nghiệp, người tiêu dùng và xã hội.

Khái niệm đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản của marketing dịch vụ:
- Nghiên cứu nhu cầu, đặc điểm nhu cầu của thị trường mục tiêu và những yếu tố chi phối thị trường mục tiêu.
- Thỏa mãn nhu cầu có hiệu quả hơn đối với đối thủ cạnh tranh trên cơ sở khai thác và huy động các nguồn lực của tổ chức.
- Thực hiện cân bằng động các mối quan hệ sản phẩm dịch vụ (loại hình, số lượng, chất lượng) với sự thay đổi nhu cầu của khách hàng.

Khái niệm, định nghĩa marketing dịch vụ

2) Đặc điểm marketing dịch vụ
Marketing dịch vụ được phát triển trên cơ sở thừa kế những kết quả của Marketing hàng hóa. Tuy nhiên, do những đặc điểm riêng của dịch vụ, hệ thống Marketing Mix cho hàng hóa không hoàn toàn phù hợp với các tổ chức cung ứng dịch vụ. “Tiếp thị trong thế kỷ 21 không còn bó hẹp trong công thức 4P truyền thống nữa mà đã và đang mở rộng ra thêm 3P thành Công thức 7P. Những nỗ lực tiếp thị sẽ được tiếp thêm nhiều năng lực và đánh bại các đối thủ cạnh tranh với công thức mới này. Một khi doanh nghiệp đã xây dựng xong chiến lược tiếp thị, công thức 7P nên được sử dụng để liên tục đánh giá và tái đánh giá các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp”.

Product ( Sản phẩm ) Sản phẩm là những cái gì có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Hàng hoá là sản phẩm có thể đưa vào thị trường để tạo ra sự mua bán. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được lợi nhuận thỏa đáng nếu đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Sản phẩm là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống Marketing – mix. Chất lượng của sản phẩm được đo lường giữa chất lượng khách hàng kì vọng và chất lượng khách hàng mong đợi. Nếu chất lượng thực tế của sản phẩm không như mong đợi thì khách hàng sẽ cảm thấy thất vọng. Ngược lại, khi chất lượng thực tế của sản phẩm đáp ứng như mong đợi hoặc vượt quá sự mong đợi thì khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng và hoan hỉ, vui vẻ. Chất lượng thật sự của hàng hoá do nhà sản xuất cung cấp thường khác với chất lượng khách hàng cảm nhận được. Chất lượng mà khách hàng cảm nhận mới là quan trọng. Chính vì thế doanh nghiệp cần phải có một chính sách sản phẩm hợp lý. Chính sách sản phẩm này đòi hỏi phải thông qua những quyết định phù hợp với nhau về từng đơn vị hàng hoá, chủng loại hàng hoá và danh mục hàng hoá

Price ( Giá ) Giá cả là những gì mang lại doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đồng thời, giá tạo ra chi phí cho khách hàng, là những gì họ “trả” để có được sản phẩm với tính năng và nhãn hiệu cụ thể. Doanh nghiệp phát triển thói quen thường xuyên xem xét và xem xét lại các mức giá của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp đang cung cấp để đảm bảo rằng nó luôn phù hợp với thực tế của thị trường hiện tại. Bằng việc nâng giá, các doanh nghiệp có thể đánh mất một số lượng khách hàng, nhưng tỷ lệ phần trăm (%) khách hàng còn lại có thể sẽ phát sinh lợi nhuận trên từng giao dịch bán hàng. Do đó để xây dựng chính sách giá cả các doanh nghiệp cần phải lưu ý: Chi phí nào doanh nghiệp phải chịu với mức giá mà thị trường chấp nhận có lãi; sản phẩm mang nhãn hiệu của doanh nghiệp mình đáng giá bao nhiêu và làm sao truyền được giá trị này cho khách hàng; mức doanh thu hay thị phần nào, sản phẩm có thể đạt được, để thu lợi nhuận tối đa.

Promotion ( Xúc tiến ) Xúc tiến bao gồm tất cả các cách thức mà doanh nghiệp có thể nói với khách hàng về sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp và làm thế nào doanh nghiệp có thể tiếp thị và bán chúng. Những thay đổi nhỏ trong cách thức mà doanh nghiệp xúc tiến và bán sản phẩm, dịch vụ có thể dẫn tới những thay đổi lớn trong kết quả kinh doanh. Thậm chí cả những thay đổi nhỏ trong quảng cáo cũng có thể dẫn ngay tới doanh số bán hàng cao hơn. Doanh nghiệp cần phải linh hoạt hơn trong công tác xúc tiến của mình. Ngay khi phương pháp bán hàng và tiếp thị hiện tại không còn phù hợp nữa doanh nghiệp cần phải xây dựng những chiến lược, chào mời và phương pháp tiếp thị, bán hàng và quảng cáo mới.

Place ( Kênh phân phối ) Chữ P thứ tư trong Công thức tiếp thị 7P đó là địa điểm nơi doanh nghiệp thực tế bán các sản phẩm hay dịch vụ. Việc lựa chọn địa điểm hoặc kênh phân phối phù hợp sẽ ảnh hưởng tới kết quả tăng trưởng doanh số bán hàng mạnh mẽ. Bên cạnh đó việc lựa chọn địa điểm bán hàng tốt sẽ giúp cho khách hàng nắm rõ những thông tin thiết yếu về sản phẩm hoặc dịch vụ cần thiết cho những quyết định sử dụng của khách hàng.

Process ( Cung ứng dịch vụ ) Do tính đồng thời trong quá trình cung ứng dịch vụ, chất lượng của sản phẩm dịch vụ được đảm bảo chủ yếu thông qua một quy trình cung ứng rõ ràng, chuẩn xác. Loại trừ được những sai sót từ cả hai phía. Một quy trình hiệu quả cũng hạn chế được đặc điểm không đồng nhất trong quá trình cung ứng dịch vụ.

Physical evidence ( Điều kiện vật chất ) Môi trường vật chất của công ty cung ứng dịch vụ là nơi dịch vụ được tạo ra, nơi khách hàng và người cung ứng dịch vụ giao tiếp, thêm vào đó là những phần tử hữu hình được sử dụng để hỗ trợ vai trò của dịch vụ. Do đặc trưng của dịch vụ là vô hình cho nên trong kinh doanh dịch vụ các nhà Marketing phải cố gắng cung cấp các đầu mối vật chất để hỗ trợ vị trí và tăng cường cho dịch vụ bao quanh nhằm làm giảm bớt tính vô hình của dịch vụ. Do vậy có thể khẳng định bằng chứng vật chất của công ty cung ứng dịch vụ là hết sức quan trọng. Nó giúp cho việc tạo ra vị thế của công ty và trợ giúp hữu hình cho dịch vụ. Chính vì vậy mà các ngân hàng đã phải chi ra những khoản tiền lớn để tạo ra kiểu dáng kiến trúc các trang trí nội thất, trang bị đồng phục cho nhân viên…nhằm gây ấn tượng về tiếng tăm, uy tín vị thế của mình.

People ( Con người ) Con người là nhân tố giữ vị trí quan trọng trong Marketing dịch vụ và nó là nhân tố chính tạo ra dịch vụ và quyết định tới chất lượng dịch vụ cung ứng. Bởi vì con người là nhân tố không thể thiếu tham gia vào quy trình cung ứng dịch vụ của công ty. Do vậy chất lượng dịch vụ cũng như sự thành công của một công ty, Marketing dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào việc tuyển chọn đào tạo con người. Chính vì thế khả năng lựa chọn, tuyển dụng và giữ chân những con người thích hợp với những năng lực và kỹ năng tốt để hoàn thành công việc được giao phó là rất quan trọng.

Thursday, June 12, 2014

Internet phát triển từ những thập niên 90 đã thực sự tạo ra một bức phát triển nhảy vọt về khả năng cung cấp thông tin, kết nối thế giới. Bạn có thể ngồi nhà và bật máy tính đã kết nối vào internet để đọc các tin tức từ khắp nơi trên thế giới, xem các video, tìm kiếm tại liệu để học tập nghiên cứu. Những việc này lẽ ra bạn chỉ có thể làm với Tivi và thư viện nếu không có internet. 

Internet Marketing là gì
Internet Marketing là gì ? Khái niệm Internet Marketing
Từ những lợi ích tuyệt vời mà internet mang lại cho người dùng, thật dễ hiểu khi theo thời gian, số người sử dụng internet lại ngày một nhiều hơn, thời gian trung bình một người dành cho internet cũng nhiều hơn. Điều đó có nghĩa là thời gian họ dành để đọc báo giấy, đi ra ngoài đường sẽ giảm đi. Xét trên khía cạnh của marketing là tiếp thị sản phẩm thì chỗ nào có nhiều người quan tâm, biết đến thì chỗ đó sẽ có marketing. Môi trường mạng đang thu hút rất nhiều người sử dụng và lẽ dĩ nhiên một khái niệm mới sẽ ra đời đó là: Internet Marketing. Vậy internet marketing là gì

Internet marketing là quá trình làm việc với môi trường internet để thực hiện việc nghiên cứu, tiếp cận khách hàng nhằm thỏa mãn nhu cầu trao đổi, buôn bán hàng hóa, dịch vụ

Khái niệm internet marketing cũng chỉ rõ internet marketing là quá trình làm việc với môi trường internet. Tại sao lại nó là môi trường internet ? Bởi vì Internet nó chứa đựng trong nó nhiều loại hình khác nhau mà mỗi loại hình (cách thức tiếp cận) lại có phương pháp làm khác nhau để có thể tiếp cận được khách hàng. Việc hiểu một cách cơ bản khái niệm internet marketing sẽ giúp bạn dễ dàng làm quen với các thuật ngữ khác trong internet marketing. Cũng có thể hiểu giống nhau những Internet marketing và online marketing.

Ở phần sau chúng ta sẽ tìm hiểu về: "Các hình thức marketing online hiện nay" 

Tuesday, June 10, 2014

Trong quá khứ, để thành công trong kinh doanh, mỗi một công ty có thể sử dụng những các marketing khác nhau nhằm lôi kéo khách hàng quan tâm và lựa chọn sản phẩm dịch vụ của mình. Tuy nhiên với những cách làm marketing đơn lẻ đã bộc lộ nhiều những điểm yếu. Từ đó marketing hỗn hợp đã ra đời như một cách linh hoạt hơn để giúp các doanh nghiệp có thể cạnh tranh và tồn tại trong thị trường ngày càng nhiều đối thủ. 

Giống như tên gọi của nó: Marketing hỗn hợp (Marketing MIX) được đề cập lần đầu tiên vào năm 1953 bởi Neil Borden - là chủ tịch của hiệp hội marketing Hòa Kỳ khi đó. Đó là tập hợp những công cụ tiếp thị mà công ty có thể sử dụng để đạt được trung tâm tiếp thị trong thị trường mục tiêu.

Định nghĩa marketing MIX | Marketing tinh MIX là gì ?
Định nghĩa marketing MIX | Marketing tinh MIX là gì ?
Marketing MIX: là tập hợp những yếu tố biến động kiểm soát được của marketing mà doanh nghiệp sử dụng để cố gắng gây được phản ứng mong muốn từ phía thị trường mục tiêu

Từ định nghĩa marketing MIX, chúng ta đặt ra câu hỏi là: những yếu tố biến động kiểm soát được đó là gì ? Những công cụ tiếp thị mà công ty có thể sử dụng là gì ? Thì để chuẩn hóa cách hiểu và thực hiện các chiến dịch markeing hỗn hợp. Người ta sử dụng thuật ngữ 4P để phân loại ra các công cụ trong marketing MIX cụ thể là:

- Chính sách sản phẩm
- Chính sách giá
- Chính sách phân phối sản phẩm
- Chính sách xúc tiên bán hàng

Trong thời đại ngày ngay, việc vận dụng markeitng MIX có thể thấy ở cả các cửa hàng nhỏ chứ không dừng lại ở những tập đoàn hay công ty lớn. Bạn có thể thấy các cửa hàng bán online luôn cạnh tranh về chinh sách giá sản phẩm, chính sách giao hàng, phân phối và không thiếu những sự kiện khuyến mại, tặng quà để xúc tiến bán hàng. Như vậy, marketing hỗn hợp là một hình thế phù hợp trong bối cảnh quan hệ sản xuất và lượng lượng sản xuất đang ở trong độ phát triển cộng hưởng và tác động đồng thời lẫn nhau. 

Sunday, June 8, 2014

Marketing là gì ? - Cho đến nay nhiều người vẫn lầm tưởng Marketing với việc chào hàng (tiếp thị), bán hàng và các hoạt động kích thích tiêu thụ. Vì vậy, họ quan niệm marketing chẳng qua là hệ thống các biện pháp mà người bán sử dụng để cốt làm sao bán được hàng và thu được tiền về cho họ. Thậm chí, nhiều người còn đồng nhất marketing với nghề đi chào hàng, giới thiệu dùng thử hàng (nghề tiếp thị).

Marketing là gì
Marketing là gì | Định nghĩa Marketing hiện đại
Thực ra tiêu thụ và hoạt động tiếp thị chỉ là một trong những khâu của hoạt động marketing. Hơn thế nữa, đó lại không phải là khâu quan trọng nhất. Một hàng hóa kém thích hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng, chất lượng thấp, kiểu dáng kém hấp dẫn, giá cả đắt thì dù cho người ta có tốn bao nhiêu công sức và tiền của để thuyết phục khách hàng, việc mua chúng vẫn rất hạn chế. Ngược lại, nếu như nhà kinh doanh tìm hiểu kỹ lưỡng nhu cầu của khách hàng, tạo ra những mặt hàng phù hợp với nó, quy định một mức giá thích hợp, có một phương thức phân phối hấp dẫ và kích thích tiêu thụ có hiệu quả thì chắc chắn việc bán những hàng hóa đó sẽ trở nên dễ dàng hơn. Cách làm như vậy thẻ hiện sự thực hành quan điểm marketing hiện đại vào kinh doanh. 


Marketing là quá trình làm việc với thị trưởng để thực hiện các cuộc trao đổi nhằm thỏa mãn những nhu cầu và mong muốn của con người . Cũng có thể hiểu, Marketing là một dạng hoạt động của con người (bao gồm cả tổ chức) nhằm thỏa mãn các nhu cầu và mong muốn thông qua trao đổi.

Thông thường người ta cũng cho rằng marketing là công việc của người bán, nhưng hiểu một cách đầy đủ theo định nghĩa marketing hiện đại thì đôi khi cả người mua cũng phải làm marketing. Trên thị trường bên nào tích cực hơn trong việc tìm kiếm cách trao đổi với bên kia, thì bên đó thuộc về phía làm marketing

Như vậy trong bài viết này, MarketingOnline68 đã gửi đến bạn đọc một định nghĩa chuẩn xác và khoa học nhất về marketing hiện đại. Nếu bạn thấy hay thì đừng quên chia sẻ bài viết theo các link ở bên dưới nhé !

Marketing đã và đang trở thành một phần không thể thiếu trong thành công của mỗi tổ chức, doanh nghiệp nhằm hướng đến mục tiêu mở rộng khách hàng và nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm. Đối với du lịch marketing đã hình thành nên một tập khái niệm và các phạm trù cần nghiên cứu riêng để nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý, vận hành hoạt động du lịch. Và để có thể hiểu rõ chúng ta phải tìm hiểu một số khái niệm và định nghĩa marketing du lịch

Định nghĩa maketing du lịch là gì ? Khái niệm marketing du lịch


Khái niệm marketing du lịch
Theo cuốn sách: "Cẩm nang marketing và xúc tiến du lịch bền vững ở Việt Nam" do Fundesco biên soạn và xuất bản thì marketing du lịch là một quá trình trực tiếp cho các cơ quan, doanh nghiệp du lịch xác định khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng, ảnh hưởng đến ý nguyện và sáng kiện khách hàng ở cấp độ địa phương, khu vực quốc gia và quốc tế để doanh nghiệp có khả năng thiết kế và tạo ra các sản phẩm du lịch nhằm nâng cao sự hài lòng của khách và đạt được mục tiêu đề ra

 Theo tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organization): "Marketing du lịch là một triết lý quản trị mà nhờ nghiên cứu, dự đoán, tuyển chọn dự trên nhu cầu của du khách. Nó có thể đem sản phẩm du lịch ra thị trường sao cho phù hợp với mục đích thu nhiều lợi nhuận cho các tổ chức du lịch đó"

Theo Robert Lanquar và Robert Hollier: "Marketing du lịch là một loạt phương pháp và kĩ thuật được hỗ trợ bằng một tinh thần đặc biệt và nhằm thỏa mãn các nhu cầu không nói ra của khách hàng, có thể là mục đích tiêu khiển hoặc những mục đích khác bao gồm công việc gia đình, công tác và họp hành"

Marketing du lịch là tiến trình nghiên cứu, phân tích những nhu cầu của khách hàng, những sản phẩm, những dịch vụ du lịch và những phương thức cung ứng, hỗ trợ để đưa khách hàng đến với những sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ đồng thời đạt được những mục tiêu của các tổ chức du lịch


Monday, January 27, 2014

(MarketingOnline68) - Môi trường marketing của một công ty (doanh nghiệp) là tập hợp tất cả các chủ thể, các lực lượng bên trong và bên ngoài công ty mà bộ phận ra quyết định marketing của công ty không thể khống chế được và chúng thường xuyên tác động (ảnh hưởng) tốt hoặc không tốt bởi các quyết định marketing của công ty.

Môi trường marketing là gì


Môi trường marketing về thực chất, theo ngôn ngữ phổ cập, cũng là môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng khi gọi chúng là môi trường marketing, thì điều đó có nghĩa là môi trường kinh doanh được xem xét theo góc độ marketing, xem xét sự ảnh hưởng của những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh tới các quyết định liên quan đến việc thiết lập, duy trì, củng cố, mở rộng, phát triển…quan hệ giữa doanh nghiệp với những khách hàng mục tiêu. Như vậy, có thể nói khi phân tích môi trường marketing, về thực chất là ta phân tích sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường kinh doanh tới sự biến đổi của tính chất, quy mô, trình độ…của nhu cầu thị trường, tới tương quan cung cầu và đặc biệt là tới các biến số marketing – mix của công ty.

Nếu như công ty có một phòng hay một bộ phận chuyên lo việc soạn thảo và ra quyết định marketing, thì các yếu tố thuộc môi trường marketing là bao gồm tất cả các tác nhân nằm ngoài khả năng kiểm soát của phòng hoặc bộ phận marketing. Do đó, thuộc về môi trường marketing cũng có thể là yếu tố nằm ngoài doanh nghiệp, nhưng cũng có thể là yếu tố nằm bên trong doanh nghiệp, nhưng bên ngoài phòng marketing.

Khi nói môi trường marketing là các yếu tố, lực lượng mà bộ phận marketing không kiểm soát được, không khống chế được, thì điều đó có nghĩa là sự thay đổi, những diến biến của các lực lượng và yếu tố đó không phải do bộ phận marketing gây ra, hay bộ phận marketing có quyền làm thay đổi. Đối với bộ phận marketing, những biến đổi đó là khách quan. Đến lượt mình, bộ phận marketing chỉ có thể theo dõi phát hiện để tự thay đổi các quyết định của mình nhằm giảm thiếu những tác động xấu, khai thác tối đa những tác động tốt hoặc để thích ứng một cách có lợi nhất.

Bài nên đọc: Phân loại môi trường marketing

Monday, August 5, 2013

(MarketingOnline68) - Bản thân marketing là việc thu thập, phân tích và xử lý thông tin một cách hợp lý để có thể tìm ra được thị trường mục tiêu, nhu cầu của khách hàng và thúc đẩy sự nhận diện của khách hàng với thương hiệu của mình. Để nắm bắt và có những kiến thức cơ bản nhất về thông tin trong marketing. Trong bài viết này, MarketingDinhCao đề cập đến các thuật ngữ cần sử dụng

Hệ thống tin và nghiên cứu marketing

Hệ thống thông tin marketing: là một hệ thống hoạt động thường xuyên của sự tương tác giữa con người, thiết bị và các phương pháp dùng để thu thập, phân loại, phân tích, đánh giá và truyền đi những thông tin cần thiết kịp thời, chính xác để người phụ trách lĩnh vực marketing sử dụng chúng với mục đích thiết lập, tổ chức thực hiện, điều chỉnh và kiểm tra các kế hoạch marketing. 

Nghiên cứu marketing: là việc phác thảo và thực hiện kế hoạch thu thập, phân tích và ghi chép có hệ thống dữ liệu và những phát hiện liên quan đến các tình huống đặc biệt về marketing đang thách thức công ty. 

Hệ thống báo cáo nội bộ: là hệ thống cung cấp những tư liệu hiện tại về doanh số, phí tổn, tồn kho, lượng tiền mặt và các khoản tiền phải thu, chi...

Câu hỏi đóng: là những câu hỏi đã đưa ra phương án trả lời và người trả lời sẽ lựa chọn một trong những phương án đó. 

Câu hỏi mở: là câu hỏi cho phép người được phỏng vấn trả lời theo suy nghĩ và ngôn ngữ riêng của họ. 

Tài liệu sơ cấp: Thông tin được thu thập lần đầu cho một mục đích riêng biệt.

Tài liệu thứ cấp: Thông tin đã có sẵn ở đâu đó, đã được thu thập thông tin vì mục đích khác

Saturday, June 29, 2013

(MarketingOnline68)-Marketing là một dang hoạt động chức năng đặc thù của doanh nghiệp. Nó bao gồm nhiều hành vi chức năng của các bộ phận tác nghiệp khác nhau hoặc của các cộng đoạn khác nhau. Để có thể quản lý và điều hành được các bộ phận đó thì cần quản trị Marketing

Vấn đề đặt ra là làm sao để tất cả các hoạt động tác nghiệp marketing đều hướng đến một phương châm hành động: hãy hiểu thuấu đáo và thỏa mãn nhu cầu và ước muốn của khách hàng một cách ưu thế hơn đối thủ cạnh tranh để thực hiện thành công các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó liên quan đến hoạt động quản trị marketing. Vậy quản trị Marketing là gì ? Theo quản điểm quản trị marketing của Philip kotler

"Quản trị Marketing là phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra việc thi hành các biện pháp nhằm thiết lập, củng cố, duy trì và phát triển những cuộc trao đổi có lợi với những người mua đã được lựa chọn để đạt được những mục tiêu cố định của doanh nghiệp."

Quản trị Marketing là gì ?
Quản trị Marketing là việc làm không thể thiếu cho mỗi chiến dịch Marketing
Như vậy, quản trị marketing có liên quan trực tiếp đến các việc
- Phát hiện và tìm hiểu cặn kẽ nhu cầu và ước muốn của khách hàng
- Gợi mở nhu cầu của khách hàng
- Phát hiện và giải thích nguyên nhân của những thay đổi tăng hoặc giảm mức cầu
- Phát hiện những cơ hội và thách thức từ môi trường marketing
- Chủ động đề ra các chiến lược và biện pháp marketing để tác động lên mức độ thời gian và tính chất của nhu cầu sao cho doanh nghiệp có thể đạt được mục tiêu đặt ra trừ trước 

Tóm lại: Quá trình quản trị Marketing gồm 5 bước:
1) Phân tích các cơ hội marketing
2) Phân đoạn và lựa chọn thị trường mục tiêu
3) Thiết lập chiến lược marketing
4) Hoạch định chương trình marketing
5) Tổ chức thực hiện và kiểm tra các hoạt động marketing

Saturday, June 22, 2013

(MarketingOnline68)-Tìm hiểu về nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người là những việc làm đầu tiên và hết sức quan trọng đối với những người làm Marketing, tuy nhiên để hàng hóa làm ra có khả năng cạnh tranh về giá cả thị các chuyên gia Marketing cũng cần phải quan tâm đến nhu cầu có khả năng thanh toán


Nhu cầu có khả năng thanh toán là nhu cầu tự nhiên và mong muốn phù hợp với khả năng mua sắm

Nhà kinh doanh có thể phát hiện ra nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người, Họ có thể chế tạo ra đủ loại hàng hóa với những đặc tính cực kì hoàn mỹ, rút cục lại họ cung chẳng bán được bao nhiêu, nếu như chi phí sản xuất ra nó lại quá lớn, giá cao đến mức người ta không thể mua sắm được, mặc dù người ta rất thích được dùng nó. Khi đó nhu cầu tự nhiên và mong muốn hay nhu cầu tiềm năng không thể biến thành nhu cầu có khả năng thanh toán - cầu thị trường - nhu cầu hiện thực

Chừng nào mà nhà kinh doanh hiểu rõ được khách hàng sẽ cần loại hàng hóa gì ? Hàng hóa đó phải có những đặc điểm gì ? Đâu là những đặc trưng quan trọng nhất ? Để tạo ra nó, người ta cần khống chế chi phí ở mức độ nào ? Tương ứng với nó là mức giá nào thì khách hàng sẽ mua ?

Marketing và nhu cầu có khả năng thanh toán
Hiểu rõ được nhu cầu của khả năng thanh toán mới giúp doanh nghiệp thành công
Khi đó họ mới thực sự hiểu được nhu cầu của người tiêu dùng, và kinh doanh mới thực sự mang lại cái mà họ chờ đợi - lợi nhuận. Để hiểu được nhu cầu thị trường, nhà quản trị marketing phải nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng về các phương tiện và nhu cầu. 

Như vậy là các loại bài viết về phân tích như các nhu cầu của người tiêu dùng, các bạn có thể thể rằng hoạt động của marketing không đơn thuần chỉ năm ở khâu tiêu thụ sản phẩm. Một nhà quản trị marketing tốt không phải chỉ hiểu rõ sản phẩm của mình mà phải nắm chắc các nhu cầu tự nhiên, mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán ứng với từng mặt hàng đó. 

Nhu cầu tự nhiên là hiện hữu, nhưng mong muốn của con người lại chịu rất nhiều những tác động khác nhau và nhu cầu có khả năng thanh toán cũng vậy. Ứng với một mức tiền A cho một sản phẩm B, người tiêu dùng C vẫn còn lưỡng lự khi mua nó - vậy ranh giới giữa việc mua và việc không mua nằm ở đâu ? Cần phải làm gì để xô đẩy rào cản về giá cả để giúp người tiêu dùng dễ dàng tiếp cận với những sản phẩm vượt quá khả năng của nhu cầu thanh toán một tỉ lệ nào đó. 


Friday, June 21, 2013

(MarketingOnline68)-Ở bài viết trước, chúng tôi đã giới thiệu định nghĩa về marketing theo quan điểm hiện đại. Trong loạt bài viết này, blog sẽ gửi đến bạn đọc các khái niệm cơ bản về nhu cầu tự nhiên, mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán (cầu thị trường)


Khái nhiệm nhu cầu tự nhiên
Nhu cầu tự nhiên là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được. Nhu cầu tất nhiên được hình thành là do trạng thái ý thức của người ta về việc thấy thiếu một cái gì đó để phục vụ cho tiêu dùng. 

Trạng thái ý thức thiếu hụt đó phát sinh có thể do sự đòi hỏi của sinh lý, của môi trường giao tiếp xã hội hoặc do cá nhân con người về vốn tri thức và tự thể hiện. Sự thiếu hụt càng được cảm nhận gia tăng thì sự khát khao được thỏa mãn càng lớn và cơ hội kinh doanh càng hấp dẫn.

Nhu cầu tự nhiên là vốn có, là một mặt bản thể của con người, nhà hoạt động Marketing không tạo ra nó. Việc cần có cơm ăn, áo mặc, nhà ở,...gắn liền với sự tồn tại của chính bản thân con người. Hoạt động của các nhà quản trị chỉ dừng ở việc phát hiện ra nhu cầu tự nhiên của con người và sản xuất ra loại sản phẩm thuộc danh mục hàng hóa thỏa mãn nhu cầu đó thị họ đã quá đơn giản hóa đòi hỏi của con ngowif. Những nhà kinh doanh mà hiểu sự đòi hỏi của con người chỉ có như vậy trong điều kiện cạnh tranh sẽ báo trước một sự thất bại.

Người làm marketing nhận thức về nhu cầu thị trường không thể chỉ dừng ở nhu cầu tự nhiên. Để tạo ra được sản phẩm hàng hóa thích ứng với nhu cầu thị trường, khác biệt với hàng hóa cạnh tranh để tăng cường khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của công ty, người ta phải hiểu một mức độ sâu hơn của nhu cầu thị trường, đó là mong muốn
what customers want
Hiểu rõ mong muốn của khách hàng mới thực sự thành công trong marketing
Mong muốn (hay ước muốn) là nhu cầu tự nhiên có đạng đặc thù, đòi hỏi được đáp ứng bằng một hình thức đặc thù phù hợp với trình độ văn hóa và tính cách cá nhân của con người.

Ví dụ: đói là một cảm giác thiếu hụt lương thực và thực phẩm trong dạ dày. Sự đòi hỏi về lương thực và thực phẩm để chống đói là nhu cầu tự nhiên của con người, nhưng mỗi người lại có đòi hỏi riêng về đặc tính, đặc thù của lương thực, thực phẩm. Người này thì đòi phải có cơm, người khác lại cần bánh mì, người này cần cơm chiên, người khách lại cần cơm nấu trong nồi đất, người ngày cần cơm thổi từ giống gạo này, người này cần cơm thổi từ giống gạo khác.

Nhu cầu tự nhiên phản ánh sự đòi hỏi về một chúng loại sản phẩm, mong muốn phản ánh sự đòi hỏi về một dạng cụ thể trong một chủng loại sản phẩm nào đó. Như vậy, chỉ có phát hiện ra mong muốn của từng người hoặc tập hợp người, người ta mới tạo ra những thuộc tính đặc thù của cùng một loại sản phẩm, nhờ vậy, mà tăng khả năng thích ứng và cạnh tranh trên thị trường và nâng cao được hiệu quả kinh doanh

Dựa vào nhu cầu tự nhiên của con người, nhà kinh doanh sẽ xác định được một chủng loại sản phẩm để đáp ứng một loại nhu cầu. Nhưng dựa vào mong muốn của con người thì nhà kinh doanh mới có thể xác định được các thông số và đặc tính của sản phẩm, từ đó quyết định sản xuất mặt hàng cụ thể mà con người - thị trường cần. Nhờ vậy mới có thể tạo ra sản phẩm tiến bộ và nâng cao khả năng cạnh tranh của nhãn hiệu sản phẩm do họ sản xuất ra. 

Tuy nhiên, phát hiện ra nhu cầu tự nhiên thường dễ dàng, khám phá ra mong muốn về từng khía cạnh của nhu cầu lại là công việc khó khăn hơn, đòi hỏi phải nghiên cứu tỉ mĩ và kỹ lưỡng hơn. Và đội khi mong muốn của con người tồn tại dưới dạng tiềm ẩn mà chính họ cũng không nhận thức được. Nhưng hễ được nhà kinh doanh hoặc một yếu tố môi trường nào đó gợi mở thì nó lại bùng phát nhanh và biến thành sức mua mạnh mẽ. 

Ví dụ: như sự ra đi và hồi phục của bút máy Packe trong cuộc cạnh tranh với bút bi Pilot sau khi khôi phục và gợi mở cho người tiêu dùng thèm muốn địa vị cao sang gắn liền với việc dùng bút máy Packe mới. 

Nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người là vô hạn, nhà kinh doanh không chỉ phát hiện và sản xuất ra sản phẩm để thích ứng với chúng như là những thứ cho không, mà phải thông qua trao đổi để vừa thỏa mãn lợi ích của người tiêu dùng, vừa thỏa mãn mục đích của nhà kinh doanh. Vì vậy, trong khi đáp lại nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người nhà kinh doanh phải tính đến một khía cạnh khác của nhu cầu thị trường - Nhu cầu có khả năng thanh toán.